Nhiễm virus hợp bào hô hấp trong thời kỳ nhũ nhi và bệnh hen trong thời thơ ấu ở Hoa Kỳ (INSPIRE): một nghiên cứu dọc tiến cứu dựa trên dân số

77

Nhiễm virus hợp bào hô hấp trong thời kỳ nhũ nhi và bệnh hen trong thời thơ ấu ở Hoa Kỳ (INSPIRE): một nghiên cứu dọc tiến cứu dựa trên dân số

 

Trung tâm Đào tạo – Chỉ đạo tuyến xin cập nhật và lược dịch bản Abstract của bài báo trên tạp chí THE LANCET với nội dung: “Respiratory syncytial virus infection during infancy and asthma during childhood in the USA (INSPIRE): a population-based, prospective birth cohort study” – “Nhiễm virus hợp bào hô hấp trong thời kỳ nhũ nhi và bệnh hen trong thời thơ ấu ở Hoa Kỳ (INSPIRE): một nghiên cứu dọc tiến cứu dựa trên dân số”

 

Tác giả: Christian Rosas-Salazar, Tatiana Chirkova, Tebeb Gebretsadik, James D Chappell, R Stokes Peebles Jr, William D Dupont, Samadhan J Jadhao, Peter J GergenLarry J AndersonTina V Hartert

TÓM TẮT

Tổng quan : Nhiễm virus hợp bào hô hấp (RSV) nghiêm trọng trong giai đoạn đầu đời có liên quan đến sự khởi đầu của bệnh thở khò khè ở thời thơ ấu. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nhiễm RSV trong giai đoạn nhũ nhi và sự phát triển của bệnh hen ở trẻ em là không rõ ràng. Chúng tôi nhằm mục đích đánh giá mối liên quan giữa nhiễm RSV trong thời kỳ nhũ nhi và bệnh hen ở thời thơ ấu.

Phương pháp: INSPIRE là một nhóm lớn, dựa trên dân số, gồm những trẻ sơ sinh đủ tháng khỏe mạnh, và không bị nhẹ cân từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2012 hoặc từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2013. Trẻ sơ sinh được tuyển chọn từ 11 trung tâm nhi trên khắp miền trung Tennessee, Hoa Kỳ. Chúng tôi chẩn đoán tình trạng nhiễm RSV (không nhiễm so với nhiễm) trong vòng một tuổi bằng cách sử dụng kết hợp giám sát thụ động và chủ động với việc xác định vi-rút thông qua phân tử và kỹ thuật huyết thanh học. Trẻ em sau đó được theo dõi tiến cứu đánh giá tình trạng hen, mà chúng tôi đã phân tích ở tất cả các trẻ đã hoàn thành 5 năm theo dõi. Các mô hình thống kê được thực hiện đối với trẻ em có sẵn dữ liệu, được điều chỉnh theo giới tính, chủng tộc và dân tộc của trẻ, bất kỳ việc bú mẹ nào, đi nhà trẻ trong thời thơ ấu, tiếp xúc với khói thuốc thụ động trong tử cung hoặc trong thời kỳ đầu nhũ nhi và bệnh hen của mẹ.

Kết quả: Trong số 1946 trẻ đủ điều kiện tham gia nghiên cứu, 1741 (89%) đủ dữ liệu để đánh giá RSV tình trạng nhiễm trùng trong năm đầu đời. Tỷ lệ trẻ nhiễm RSV trong giai đoạn nhũ nhi là 944 (54%; 95% CI 52–57) trong số 1741 trẻ em. Tỷ lệ trẻ em 5 tuổi hiện mắc bệnh hen suyễn thấp hơn ở những trẻ không bị nhiễm RSV trong thời thơ ấu (91 [16%] trong số 587) so với những trẻ bị nhiễm RSV trong thời thơ ấu (139 [21%] của 670; p=0.016). Không bị nhiễm RSV trong thời thơ ấu có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh hen trong 5 năm thấp hơn 26% so với bị nhiễm RSV trong thời thơ ấu (RR hiệu chỉnh 0.74, KTC 95% 0.58–0.94, p=0.014). Ước tính tỷ lệ các trường hợp hen hiện tại trong 5 năm có thể ngăn ngừa được bằng cách tránh nhiễm RSV trong thời thơ ấu là 15% (KTC 95% 2.2–26.8).

Kết luận Ở những trẻ khỏe mạnh sinh đủ tháng, không bị nhiễm RSV trong năm đầu đời có liên quan giảm đáng kể nguy cơ phát triển bệnh hen ở trẻ em. Phát hiện của chúng tôi cho thấy sự liên quan phụ thuộc vào độ tuổi giữa nhiễm RSV trong thời thơ ấu và bệnh hen ở trẻ em. Tuy nhiên, để thiết lập một cách rõ ràng quan hệ nhân quả, tác động của các biện pháp can thiệp ngăn ngừa, trì hoãn hoặc giảm mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng RSV ban đầu đối với bệnh hen suyễn ở trẻ em sẽ cần được nghiên cứu thêm.

 

Thông tin tham khảo: vui lòng truy cập theo đường link sau

https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0140673623008115